Tổng dân số | 96,2 Triệu người (100%) |
Nam giới | 47,9 Triệu người (chiếm 49,8%) |
Nữ giới | 48,32 Triệu người (chiếm 50,2%) |
Mật độ dân số 290 người/km2 | 290 người/km2 |
TP.Hồ Chí Minh | 4.363 người/km2 |
TP.Hà Nội | 2.398 người/km2. |
Dân số thành thị | 33 triệu người (34,4%) |
Dân số nông thôn, chiếm | 63 triệu người (65,6%.) |
Vùng Đồng bằng sông Hồng | 22,5 triệu người, (23,4%)
|
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung | 20,2 triệu người (21%) |
Tây Nguyên | 5,8 triệu người |
Dân tộc kinh | 82 triệu người ( 85,3 %) |
Dân tộc khác | 14,1 triệu người (14,7 %) |
Kết quả Tổng điều tra dân số lần thứ 5 tại Việt Nam tính đến 1/4/2019, tổng dân số của Việt Nam đạt 96.208.984 người. Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới và đứng thứ 3 Đông Nam Á (sau Indonesia và Philipines).
Trong tổng số hơn 96,2 triệu dân, có 47,88 triệu người (chiếm 49,8%) là nam giới và 48,32 triệu người (chiếm 50,2%) là nữ giới. So với năm 2009, vị trí xếp hạng về quy mô dân số của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á không thay đổi và giảm hai bậc so với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Sau 10 năm, kể từ năm 2009 đến nay, quy mô dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009 – 2019 là 1,14%/năm, giảm nhẹ so với giai đoạn 10 năm trước (1,18%/năm).
Năm 2019, mật độ dân số của Việt Nam là 290 người/km2, tăng 31 người/km2 so với năm 2009. TP.Hà Nội và TP.HCM là hai địa phương có mật độ dân số cao nhất cả nước, tương ứng là 2.398 người/km2 và 4.363 người/km2.
. Dân số khu vực thành thị năm 2019 ở Việt Nam là 33.059.735 người, chiếm 34,4%; ở khu vực nông thôn là 63.149.249 người, chiếm 65,6%.
. Vùng Đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung dân cư lớn nhất của cả nước với 22,5 triệu người, chiếm gần 23,4%;
tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với 20,2 triệu người, chiếm 21%.
Tây Nguyên là nơi có ít dân cư sinh sống nhất với tổng dân số là 5,8 triệu người, chiếm 5,8 triệu người dân số cả nước.
Về cơ cấu dân tộc, hiện toàn quốc có hơn 82 triệu người dân tộc Kinh, chiếm 85,3% và hơn 14,1 triệu người dân tộc khác, chiếm 14,7% tổng dân số của cả nước.
Theo kết quả sơ bộ tổng điều tra dân số, toàn quốc có khoảng 91,7% dân số trong độ tuổi đi học phổ thông hiện đang đi học. Tỷ lệ này của nữ cao hơn so với nam, tương ứng là 92,5% và 90,8%. Trong vòng 20 năm qua, tỷ trọng dân số trong độ tuổi đi học phổ thông hiện không đi học (chưa bao giờ đi học hoặc đã thôi học) giảm đáng kể, từ 20,9% năm 1999 xuống còn 16,4% năm 2009 và còn 8,3% năm 2019.
Cả nước có 95,8% người dân từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết, tăng 1,8 điểm phần trăm so với năm 2009. Tỷ lệ nam giới biết đọc biết viết đạt 97,0%, cao hơn 2,4 điểm phần trăm so với tỷ lệ này ở nữ giới. Trong 20 năm qua, tỷ lệ biết đọc biết viết của nữ tăng 7,7 điểm phần trăm; khoảng cách chênh lệch về tỷ lệ biết đọc biết viết giữa nam và nữ được thu hẹp đáng kể.
Cả nước vẫn còn 4.800 hộ (trong tổng số 26,9 triệu hộ dân cư toàn quốc) không có nhà ở, mặc dù tình trạng hộ không có nhà ở đang dần được cải thiện, từ mức 6,7 hộ/10.000 hộ vào năm 1999 xuống còn 4,7 hộ/10.000 hộ năm 2009, và đến nay là 1,8 hộ/10.000 hộ.
Cư dân thành thị có diện tích nhà ở bình quân đầu người cao hơn cư dân nông thôn, tương ứng là 24,9 m2/người và 22,7 m2/người. Không có sự chênh lệch đáng kể về diện tích nhà ở bình quân đầu người giữa các vùng kinh tế – xã hội
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng, kết quả thể hiện ở số liệu của Tổng điều tra năm 2019 cho thấy nỗ lực và hiệu quả của nhiều chính sách trong thời gian qua đã được thực hiện tốt. Thành quả này có được là nhờ những Chủ trương, đường lối chính sách và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ trong nhiều năm qua; nhờ sự tin tưởng và những nỗ lực không ngừng của mỗi người dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Phó thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh, kết quả sơ bộ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định chính sách nhằm tận dụng được thời cơ dân số vàng, khắc phục được tình trạng chưa giàu đã già, cũng như nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp./.