Home / Phát triển doanh nghiệp / Sách hay / Ngô Khởi Binh Pháp: Quyển Thượng

Ngô Khởi Binh Pháp: Quyển Thượng

Ngô Khởi (吴起)
Ngô Khởi (吴起)

– Ngô Khởi sống thời Chiến Quốc sinh năm nào không rõ và mất năm 381 trước Công nguyên, sau Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ.

– Ngô Khởi từng làm đại tướng ở nước Lỗ, nước Ngụy và làm tướng quốc ở nước Sở. Do bị ghen ghét tài năng và những cải cách của ông ở nước Sở đụng chạm dến quyền lợi của giai cấp quí tộc thuộc dòng dõi vua chúa nhiều đời nên ông bị hãm hại ở nước Sở.

– Ngô Khởi là một nhà quân sư nổi tiếng, nhà chính trị, nhà cải cách lớn thời Chiến quốc. Khi ông nắm quyền ở nước nào đều làm cho nước đó trở nên cường thịnh, mở mang bờ cõi, các nước khác không dám đến xâm lược.

– Tư tưởng về nghệ thuật quân sự của ông (bộ binh pháp Ngô Tử) rất có giá trị, lá  một trong 7 bộ binh pháp cổ (VŨ KINH THẤT THƯ) nổi tiếng của Trung Quốc.

THƯỢNG QUYỂN

Thiên thứ 1: MƯU ĐỒ VIỆC NƯỚC

Ngô Tử phục sức theo lối nhà nho đến yết kiến Nguỵ Văn Hầu để bàn về việc binh.

 Văn Hầu nói: “Quả nhân không thích việc quân lữ.

Khởi đáp: “Hạ thần nhân vì dò xét xác việc sâu kín, theo dõi các việc từ xưa đến nay, sao nhà vua lại nói những lời trái với lòng mình? Nay nhà vua suốt bốn mùa đều khiến giết trâu bò để lột da đem thuộc, lấy sơn đỏ phết ở ngoài, vẽ những hình xanh đỏ, dùng những da tê, da voi bóng láng, nếu dùng da ấy để mặc vào mùa đông thì không được ấm, mặc vào mùa hè thì không được mát; Vua khiến đặt rèn kích dài hai trượng bốn thước, kích ngắn một trượng hai thước; Vua khiến đặt làm bọc da che bít các cửa, bánh và trục rất thô kệt, lấy mắt để xem thì không được đẹp, cưỡi để đi xem ruộng thì không được nhẹ, không biết vua có thể nào dùng những thứ ấy mà được yên lòng chăng?

Nên làm như thế để chuẩn bị, tới thì danh, hư thì giữ mà chẳng cần đem dùng những thứ ấy cho đúng mực, điều ấy có thể ví như đem gà con đang ấp để đấu với chồn cao, đem cho con đang bú để khêu chọc cọp dữ, tuy là có lòng chiến đấu nhưng thực đưa vào chỗ chết vậy!

Ngày xưa vua họ Thừa Tang chỉ lo tu tức àm phế bỏ việc võ bị cho nên nước bị huỷ diệt, vua họ Hữu Hổ cậy đông ưa mạnh nên xã tắc phải táng vong. Nhà vua sáng suốt xét việc ấy, ắt bên trong phải lo trau dồi văn đức, bên ngoài lo sửa sang việc võ bị. Sức mạnh ngang với địch mà không tiến được thì đáng gọi là nghĩa dũng! Cho đến khi thấy chết thây đã cứng đơ mới buồn thương thì không đáng gọi là nhân ái.

Nhân bởi đó, Văn Hầu tự tay mình trải chiếu, phu nhân bưng chiến mời Ngô Khởi uống rượu tại miếu đường, lập khởi làm đại tướng trấn thủ Tây Hà, đánh nhau với chư hầu bảy mươi sáu trận, toàn thắng được sáu mươi tư trận, còn dư lại thì hoà nhau, mở rộng đất bốn phía, giành lấy ngàn dặm đất, tất cả đều là công của Khởi cả.

Ngô Tử nói: Ngày xưa các bậc vua chúa mưu đồ việc quốc gia, ắt trước hết phải dạy dỗ trăm họ, gần giữ muôn dân.

Có bốn mối bất hoà:

– Trong nước không hoà hợp thì đừng ra quân;

– Trong nước không hoà hợp thì đừng bày trận;

– Trong nước không hoà hợp thì đừng tiến đánh;

–  Trong khi đánh không hoà hợp thì không thể quyết thắng.

Bởi thế cho nên bậc vua chúa có đạo lí, nếu muốn sử dụng dân chúng, thì trước hết phải hoà hợp lòng dân rồi sau mới làm được việc lớn. Không dám tin cậy vào mưu kế của riêng mình, ắt phải cáo trước với Trời Đất và tổ tiên nơi tổ miếu, xem việc lành dữ bày ra ở mu rùa coi them thời trời, nếu đều tốt lành cả thì sau mới dấy binh được.

Người dân liền biết nhà vua thương xót mạng sống của họ, buồn tiếc về sự chết choc của họ, nếu được như thế thì bề trên và người dưới cũng gặp hoạn nạn với nhau thì sĩ tốt sẽ cho rằng tiến tới chỗ chết là vinh, lui về cầu sống là nhục.

Ngô Tử nói:

–  Đạo là trở về gốc;

– Nghĩa là làm việc, lập công;

–  Mưu là lìa bỏ điều hại, chạy tới điều lợi.

–  Việc trọng yếu là bảo toàn sự nghiệp giữ gìn sự thành công.

Nếu hành động không hợp đạo, xử sự không hợp nghĩa mà xử sự ra vẻ ta đây là to hơn, cao sang, ắt là phải gặp tai hoạ, bởi thế thánh nhân yên dân bằng đạo lí, trị dân bằng chính nghĩa, sai khiến dân bằng nghi lễ, vỗ về dân bằng nhân ái. Bốn đức tính ấy được trau dồi thì nước nhà hưng thịnh, bị phế bỏ đi thì nước nhà suy vong. Cho nên vua Thành Thang đánh vua Kiệt mà dân nhà hạ vui mừng, vua Võ Vương đời Chu đánh vua Trụ mà dân nhà Ân không cho là trái lẽ. Đó là nhờ khởi binh thuận theo Trời và Người nên mới được như thế.

Ngô Tử nói: Phàm chế định việc nước, sửa trị việc quân ắt là phải lấy lễ nghi để dạy dân, lấy nghĩa vụ để khuyến khích dân, khiến cho người dân biết xấu hổ. Con người ta biết xấu hổ, hễ nhiều làm là đánh, ít làm là giữ; Nhưng:

Đánh mà thắng được là dễ;

Giữ mà thắng được là khó;

Cho nên mới nói rằng: Giữa các nước đánh nhau trong thiên hạ:

– Ai thắng năm lần thì gặp tai hoạ;

– Ai thắng bốn lần thì chịu tệ hại;

– Ai thắng ba lần thì làm bá;

– Ai thắng hai lần thì làm vương;

–  Ai thắng một lần thì làm đế.

Thắng nhiều lần mà chiếm được thiên hạ là trường hợp ít có; thắng nhiều lần mà mất thiên hạ là trường hợp thường thấy.

Ngô Tử nói: Phàm việc dấy binh mã có năm cớ:

– Thứ nhất là vì tranh danh;

– Thứ hai là vì tranh lợi;

– Thứ ba là vì chứa ác;

– Thứ tư là vì nội loạn;

–  Thứ năm là vì đói kém;

Binh lại có năm danh hiệu khác nhau:

– Thứ nhất là nghĩa binh (binh nghĩa hiệp)

– Thứ hai là cường binh (binh mạnh)

– Thứ ba là cương binh (binh cứng)

–  Thứ tư là bạo binh (binh hung dữ)

–  Thứ năm là nghịch binh (binh trái ngược)

–  Ngăn chặn việc bạo ác, cứu nước nhà trong cơn loạn lạc, đó gọi là nghĩa;

–  Cậy đông để đánh người gọi là mạnh;

–  Nhân cơn giận mà dấy binh gọi là cứng;

–  Bỏ lễ nghĩa mà tham lợi gọi là hung dữ;

–  Khi nước loạn, người mệt mà dấy binh đánh người, gọi là trái lẽ.

Năm loại binh ấy đều có phép khắc phục.

– Lấy gặp nghĩa binh thì lấy lễ nghĩa mà khắc phục họ;

– Nếu gặp cường binh thì lấy sự khiêm cung mà khắc phục họ;

– Nếu gặp cương binh thì lấy sự từ tốn mà khắc phục họ;

– Nếu gặp bạo binh thì dùng cách đánh lừa mà khắc phục họ;

– Nếu gặp nghịch binh thì dùng cơ quyền mà khắc phục họ.

Võ Hầu hỏi rằng: Xin được nghe về phép trị binh nuôi người, giữ nước.

Khởi đáp rằng: Ngày xưa bậc quân vương sáng suốt ắt phải lo giữ gìn lễ chế giữa vua và tôi, lo trau dồi nghi thức giữa người trên và kẻ dưới, vỗ về trăm họ, gom trị dân chúng, chiếu theo phong tục mà giao huấn, tìm mời các bậc lương thiện tài năng để phòng bị cho khỏi sai lầm.

Ngày xưa, Tề Hoàn Công chiêu mộ triệu tập được bón văn sĩ tốt mà được thoả chí. Tần Mậu Công đem ba vạn sĩ tốt ra hãm trận mà khuất phục được các lân bang thù địch. Cho nên làm vua một cường quốc ắt phải nuôi người.

–  Nếu có những kẻ can đảm, mạnh mẽ thì gom họ lại thành một tốp.

–  Nếu có những kẻ hăng hái tiến đánh, cố hết sức để bày tỏ lòng trung dũng thì gom họ lại thành một tốp.

–  Nếu có những kẻ có tài trèo cao, vượt xa, lẹ chân chạy giỏi thì gom họ lại thành một tốp;

–  Nếu có những tôi tớ cũ của nhà vua bị mất chức, nay muốn lập công với bề trên thì gom họ lại thành một tốp;

–  Nếu có những kẻ bỏ thành không giữ, nay muốn rửa vết nhơ ấy thì gom họ lại thành một tốp.

Đó là năm phép để kén chọn quân tinh nhuệ. Kiếm được ba ngàn người như thế, ở trong đánh ra có thể phá vỡ vòng vây, ở ngoài đánh vào có thể hạ thành.

Võ Hầu hỏi rằng: Xin được nghe về phép lập trận cho được vững vàng, phép giữ gìn cho được chắc chắn, phép đánh phá cho được thắng lợi.

Khởi đáp rằng: Nhà vua đứng xem thì còn có thể hiểu cách thức được, há chỉ nghe giảng mà hiểu được sao?

Nếu vua đăt người hiền tài ở trên, kẻ ngu xuẩn ở dưới thì có thể bày trận vững vàng;

Nếu nhân dân sống yên ổn với nhà ruộng của họ, thân yêu quan lại coi sóc họ, thì có thể giữ gìn chắc chắn;

Nếu trăm họ co là vua ta phải lẽ, địch quốc trái lẽ, thì có thể đánh phá thắng lợi.

Thường khi Võ Hầu bàn luận việc nước, mà thấy các quan trong triều không ai thông thái bằng mình được, thì lúc bãi triều vua tỏ vẻ vui mừng.

Khởi tiến lên nói rằng: Ngày xưa, thường khi vua Sở Trang Vương bàn luận việc nước,mà thấy các quan trong triều không ai thông thái bằng mình thì lúc bãi triều Vua tỏ vẻ lo buồn. Thân Công hỏi vua rằng: Vua có vẻ lo buồn, vì sao thế? Vua đáp: Quả nhân nghe rằng đời không bao giờ hết thánh nhân, nước không bao giờ thiếu hiền tài, ai được các bậc ấy làm thầy là người ấy làm Vương, ai được các bậc ấy làm bạn thì người ấy làm Bá. Nay quả nhân là người bất tài, mà các quan trong triều không ai hơn được quả nhân, đó là điều nguy hại của nước Sở vậy vào trường hợp Sở Trang Vương lo buồn mà nhà vua lại vui mừng thì hạ thần phải thầm lo sợ vậy!

Nghe nói thế, Võ Hầu bèn có sắc khen.

Thiên thứ 2: TRÙ LIỆU ĐỐI PHÓ VỚI QUÂN ĐỊCH.

Võ Hầu nói với Ngô Khởi rằng: Nay nước Tần hiếp phía Tây nước ta, nước Sở bịt phía Nam nước ta, nước Triệu ép phía Bắc nước ta, nước Tề lấn phía Đông nước ta, nước Yên chặn phía sau nước ta, binh sáu nước đem giữ chặt bốn phía, ta bị kẹt vào thế phá bất tiện, biết lo tính làm sao đây?

Khởi đáp rằng: Phép giữ nước nhà là trước hết phải lấy sự phòng bị làm quý. Nay vua biết phòng bị thì tai hoạ còn xa xăm chưa thể tới được. Hạ thần xin luận về phong tục, tính tình của người dân sáu nước:

Nước Tề bày trận cẩn thận mà không vững bền;

Nước Tần bày trận rời rạc nhưng biết tự đánh;

Nước Sở bày trận chỉnh tề nhưng không được lâu;

Nước Yên bày trận giữ thế thủ nhưng không bỏ chạy;

Tam Tấn bày trận có trật tự nhưng không vận dụng.

Dân Tề tính khí cứng cỏi, nước giàu, vua tôi kiêu căng xa xỉ, nhưng việc săn sóc lê dân rất sơ sài, nền chính trị khoan dung nhưng bổng lộc phân chia không đều, một trận mà hai lòng, phía trước cẩn thận mà phía sau khinh suất, cho nên bày trận cẩn thận mà không vững bền. Phép đánh họ ắt là chia quân ra ba phần mà đánh vào hai hông phải và trái, bám sát theo họ thì có thể phá trận của họ được.

Dân Tần tính khí mạnh mẽ, đất đai hiểm trở nên chính trị nghiêm khắc, sự thưởng phạt đúng đắn, người dân không nhúng nhường, ai ai cũng có lòng chiến đấu, cho nên bày trận rời rạc mà mọi người đều biết tự đánh. Phép đánh họ là trước hết phải bày điều lợi để dẫn dụ họ, sĩ tốt tham đoạt lợi nên rời xa tướng suý, thừa dịp họ khinh suất đuổi theo làm cho ba quân rời rạc, và đặt phục binh chờ cơ hội mà đánh úp thì có thể bắt tướng suý của họ được.

Dân Sở tính khí yếu ớt, đất đai rộng rãi, nền chính trị rối loạn, dân chúng mỏi mệt, cho nên bày trận chỉnh tề nhưng không được lâu dài. Phép đánh họ là ùa đánh vào các đồn trước hết phá tan nhuệ khí của họ. Thình lình rồi đánh, rồi rút lui thật nhanh, làm cho họ khốn đốn vất vã, chớ nên giao tranh với họ, làm như thế thì có thể đánh bại quân họ được.

Dân Yên tính khí thành thực, cẩn thận, thích sự nghĩa dũng, ít mưu mô dối trá, cho nên cố giữ mà không bỏ chạy. Phép đánh họ là đến sát bức bách họ, đánh phá họ rồi bỏ đi xa, cho quân kị chạy vòng ra phía sau họ thật nhanh, làm cho bên địch trên thì nghi ngờ, dưới thì sợ hãi, phải cận thận đề phòng chiến xa và quân kị của ta, như thế tướng của họ phải né tránh ta và ta có thể chận bắt được.

Tam Tấn chính là Trung Quốc, tính tình hoà nhã, nền chính trị bình an, dân chúng đã mệt mỏi vì chiến tranh, đã tập quen việc binh bị, tướng suý bị bạc đãi, bổng lộc ít ỏi, sĩ tốt không có lòng liều chết nên tuy có trật tự mà không sử dụng được. Phép đánh họ là bày trận mà ngăn chận họ, họ đến thì ta chống cự, họ bỏ đi thì ta đuổi theo, cốt làm cho quân đội của họ mệt mỏi, đó là thế đánh.

Thế rồi, trong mỗi đội quân, ắt có những dũng sĩ, đủ sức gánh vác nhẹ nhàng, chân chạy lẹ làng như ngựa rợ Nhung, giật cờ bắt tướng đều  có đủ khả năng, nếu được hạng người như thế thì chọn riêng họ ra, thương yêu, quý mến họ, đó gọi là quân mệnh; theo công dụng của họ mà chia ra năm thứ binh: tài giỏi, mạnh mẽ, dẻo dai, mau lẹ, nuôi chí nuốt địch, đều ban them cho họ phẩm tước, để họ quyết thắng, hậu đãi cha mẹ, vợ con họ, tưởng thưởng để khuyến khích họ, trừng phạt để uy phục họ, hạng sĩ tốt ấy có thể lập trận vững bền, giữ nước lâu dài. Nếu biết suy xét điều ấy thì sức đánh của quân ta sẽ tăng gấp bội.

Võ Hầu khen là hay.

Ngô Tử nói rằng: Khi trù liệu đối địch, có tám trường hợp nên đánh ngay mà chẳng cần bói toán:

–  Thứ nhất là khi gió lớn, trời lạnh gắt, địch thức dậy sớm để dời binh, phá băng vượt nước, không ngại gian nan.

– Thứ hai là đang ngày hè nóng nực, trời trong vắt không mây, quân địch chịu đói khát rong ruổi, cốt để giành giựt ở nơi xa;

– Thứ ba là địch quân bị kẹt cứng lâu ngày ở một chỗ, lương thực hết sạch, trăm họ oán giận, nhiều kẻ bàn tán việc hoà phục mà cấp trên không ngăn cắm được.

–  Thứ tư là địch quân hết sạch tiền của lương thực, củi cỏ thì ít ỏi, trời thì nhiều mây mưa, muốn đi cướp giật để ăn mà cũng không tìm ra chổ nào;

–  Thứ năm là địch gặp cảnh sĩ tốt không nhiều, đất nước không tiện lợi, người ngựa bị bệnh tật, các nước láng giềng bốn bên không đến giúp;

–  Thứ sáu là địch gặp cảnh đường còn xa mà trời đã tối, sĩ tốt vất vả và lo sợ, mệt mỏi và chưa ăn, đang cởi giáp để nghỉ ngơi.

–  Thứ bảy là bên địch, tướng tá ăn ở lạt lẽo, nhỏ nhen, lại sĩ khinh suất, lính tráng không vững vàng, ba quân nhiều lần sợ hãi, quân đội không được giúp đỡ.

– Thứ tám là bên địch bày trận chưa hẳn hoi, dựng dinh trại chưa xong, đi ngược triền dốc, qua nơi hiểm trở, nửa ẩn nửa hiện.

Gặp những trường hợp như thế, ta nên đánh chúng mà chớ nghi ngại gì cả. Có sáu trường hợp phải tránh né địch quân mà không cần xem tốt xấu.

– Thứ nhất là địch có đất đai rộng rãi bao la, nhân dân giàu có, đông đúc;

– Thứ hai là bên địch, người trên biết thương kẻ dưới, ân huệ ban bố đầy rẫy khắp dân chúng;

– Thứ ba là bên địch, sự tưởng thưởng rất tín thực, hình phạt đúng đắn và thi hành đúng lúc;

–  Thứ tư là bên địch đánh trận thì thành công, ở nhà thì tề chỉnh, biết sử dụng người hiền năng;

–  Thứ năm là địch có quân lính đông đảo, rất tinh tường việc binh giáp;

–  Thứ sáu là địch có các lân bang bốn bên trợ giúp, có nước lớn sẵn sang cứu viện;

–  Nếu thấy rằng ta không bằng địch về các phương tiện ấy thì nên né tránh mà đừng đánh chúng, đó gọi là: “thấy dễ thì tiến, thấy khó thì lui”.

Võ Hầu hỏi rằng: Ta muốn xem tình trạng bên ngoài của địch mà biết được tình hình bên trong, xem cách chúng tiến lên mà biết rằng chúng muốn dừng lại, để quyết định sự hơn thua. Ngài có thể giảng cho ta nghe được không?

Khởi đáp rằng: Quân địch đến gần, như ra vẻ vô tư lự, cờ xí rối loạn, người ngựa ngược xuôi không ngay ngắn chỉnh tề, nếu gặp trường hợp như thế, một người bên ta có thể đánh mười người bên địch, khiến cho chúng không thể sắp đặt kịp thời đối phó với ta.

Các nước chư hầu chưa tụ hội để giúp nhau, vua tôi của họ chưa hoà hợp, hào luỹ chưa chuẩn bị xong, mệnh lệnh chưa được thi hành, ba quân huyên náo. Họ muốn tiến lên mà không được, muốn lui về mà không dám, nếu gặp trường hợp như thế, một số ít quân ta cũng có thể đạnh bại số nhiều quân địch, một trăm trận cũng không nguy hại.

Võ Hầu hỏi: Nên đánh địch vào những lúc nào?

Khởi đáp rằng: Khi dụng binh nên dò xét để biết quân địch mạnh hay yếu vào lúc nào và ở chỗ nào để đánh chúng vào lúc nguy nan;

– Quân địch đi từ xa mới tới, hàng lối chưa chỉnh tề: nên đánh chúng!

– Quân địch mới bắt đầu ăn chưa sắp đặt sẵn sang: nên đánh chúng!

– Quân địch chạy trốn: nên đánh chúng!

– Quân địch đang làm lụng khó nhọc: nên đánh chúng!

– Quân địch chưa chiếm được địa lợi: nên đánh chúng!

– Quân địch trể nải, chuẩn bị không kịp ngày giờ: nên đánh chúng!

– Quân địch vượt đường dài, mới tới chưa kịp nghỉ ngơi: nên đánh chúng!

– Tướng địch rời xa sĩ tốt: nên đánh chúng!

–  Quân địch có lòng sợ hãi: nên đánh chúng!

Gặp những trường hợp như thế, ta chọn sĩ tốt tinh nhuệ để xông tới rồi chia binh tiếp thêm vào, đánh gấp mà chớ nghi ngại gì cả.

Thiên thứ 3: TRỊ BINH

Võ Hầu hỏi rằng: Trong phép dùng binh, cần làm việc gì trước nhất?

Khởi đáp rằng: Trước hết phải biết rõ bốn điều dễ, hai việc lớn, một điều tín thực.

Hỏi: Sao lại gọi như thế?

Đáp:  Đó là làm cho đất dễ đi bằng ngựa, ngựa dễ kéo xe, xe dễ chở người, người dễ chiến đấu.

– Biết rõ đất dễ, đất khó thì đất dễ đi bằng ngựa;

– Cung ứng cỏ rơm kịp thời, thì ngựa dễ kéo xe;

–  Mỡ và dầu trục xe dư dùng, thì xe dễ chở người;

–  Gươm giáo bén nhọn, bào giáp bền bỉ, thì người dễ chiến đấu.

–  Tiến lên thì được thưởng lớn, lui về thì bị phạt nặng;

– Thi hành tín thực

Nếu xét làm được những việc ấy thì có thể làm chủ được sự chiến thắng.

Võ Hầu hỏi rằng: Binh lấy gì làm ưu thắng?

Khởi đáp rằng: lấy trật tự làm ưu thắng.

Lại hỏi rằng: Có phải nhờ đông đảo không?

Đáp: Nếu pháp lệnh không sáng suốt, thưởng phạt không tin thực, chiêng đánh không đúng, trống đánh không tới, tuy có trăm vạn binh, dùng được ít gì?

Điều gọi là trật tự có nghĩa là ăn ở theo lễ nghi, cử động có uy vũ, tiến tới thì không ai chống cự nổi, lui về thì không ai đuổi kịp, tiến quân đánh đuổi trúng tiết, tả quân hữu quân ứng biến kịp thời theo hiệu lệnh, tuy ở thế kẹt cũng bày trận hẳn hoi, tuy tản ra mà vẫn còn hàng ngũ.

Cùng hưởng cảnh an vui với họ, cùng chịu cảnh nguy nan với họ, nên sĩ tốt luôn luôn quay quần theo ta mà không bao giờ li tán, có thể sử dụng mãi mà không bao giờ mỏi mệt, nên quân sĩ vào nơi nào thì thiên hạ không chống cự nổi, đó gọi là binh cha con.

Ngô Tử nói rằng: Theo phép hành quân, chớ nên đi đứng trái tiết, chớ nên ăn uống trái thời, chớ làm kiệt sức người và ngựa, đó là ba điều kiện để sĩ tốt dễ thi hành lệnh trên. Sĩ tốt thi hành lệnh trên, đó là nguồn gốc của sự trị an. Nếu đi đứng không đúng tiết, ăn uống không đúng thời, người ngựa mệt mõi không được nghỉ ngơi, đó là nguyên nhân làm cho sĩ tốt không thi hành lệnh trên. Lệnh trên bị khinh rẻ thì khi ở yên bình sẽ rối loạn, khi đánh giặc binh sẽ thất bại.

Ngô tử nói rằng: Khi binh ở chiến trường, đừng vào đất chết, hễ liều chết thì được sống, cầu sống thì phải chết; người tướng giỏi cầm binh cũng giống như ngồi trong thuyền thủng đáy bị nước rỉ vào, hoặc đang nằm ấm trong nhà mà chạy, việc xảy ra thật là cấp bách khiến cho người có trí cũng không kịp mưu tính được gì, kẻ dũng cảm cũng không kịp nổi giận, phải như thế mới có thể ứng địch được. Cho nên có nói rằng: Trong các điều hại của sự dùng binh, sự do dự là nguy hại nhất; tai họa của ba quân sinh ra do sự hồ nghi.

Ngô Tử nói rằng: Người ta thường chết ở chỗ mà mình bất lực, thường thất bại ở chỗ bất tiện cho mình. Cho nên trong phép dùng binh, sự răn dạy phải đứng đầu.

– Một người học đánh, dạy lại thành mười người biết đánh;

– Mười người học đánh, dạy lại thành trăm người biết đánh;

– Trăm người học đánh, dạy lại thành ngàn người biết đánh;

– Ngàn người học đánh, dạy lại thành muôn người biết đánh;

– Muôn người học đánh, dạy lại thành ba quân biết đánh;

– Lấy ta ở gần chờ đánh địch từ xa tới;

– Lấy ta nhàn chờ đanh địch mệt;

– Lấy ta no chờ đánh địch đói;

– Binh ta đang bày viên trận, ta buộc đổi thành phương trận;

– Binh ta đang ngồi, ta buộc đứng dậy đi;

– Binh ta đang đi, ta buộc đứng lại;

– Binh ta đang đi qua trái, ta buộc đi qua phải;

– Binh ta đang quay qua trước, ta buộc đi quay qua sau;

– Binh ta đang phân tán, ta buộc tụ hợp lại;

– Binh ta đang kế hợp, ta buộc giải tán.

Mỗi việc biến dịch ấy đều phải tập tành cho quen thuộc rồi mới sử dụng binh ấy được, đó là phận sự của tướng súy.

Ngô Tử nói rằng: Theo phép dạy đánh thì:

– Người thấp cầm giáo kích;

– Người cao cầm cung nỏ;

– Người mạnh cầm cờ xí;

– Người dạn cầm chiêng trống;

– Người yếu làm việc vặt vãnh và nấu ăn;

– Người trí làm chủ mưu;

– Làng xóm nương nhau;

– Các đội thập và đội ngũ che chở nhau;

– Nghe một tiếng trống thì sắp binh chỉnh tề;

– Nghe hai tiếng trống thì tập trận;

– Nghe ba tiếng trống thì đi ăn;

– Nghe bốn tiếng trống thì làm việc nghiêm chỉnh;

– Nghe năm tiếng trống thì vào hàng;

– Nghe trống và chiêng cùng đánh một lần rồi mới đưa cờ lên.

Võ Hầu hỏi rằng: Ba quân đi đứng há phải có phép tắc sao?

Khởi đáp: Không thể chống với thiên táo (bếp trời), không thể chống với long đầu (đầu rồng). Thiên táo là miệng hang lớn, long đầu là đầu núi lớn, ắt là bên trái có Thanh long, bên phải có Bạch hổ, trước mặt có Chu tước, sau lưng có Huyền Vũ.

Người ở trên được thế chủ động, người ở dưới phải tuân theo thế bị động.

Lúc sắp đánh, phải xem xét gió thổi theo hướng nào. Nếu gió thổi thuận chiều cho ta, thì ta hô lớn và đánh theo chiều gió; nếu gió thổi ngược chiều với ta, thì ta lập vững bền để chờ đánh địch.

Võ Hầu hỏi rằng: Về việc nuôi người và ngựa, phải cho ở chỗ yên ổn, dễ kiếm cỏ, nước, lo liệu việc no đói của chúng cho có chừng mực. Về mùa đông thì cho ở chuồng ấm, về mùa hè thì cho ở chuồng mát, cắt bớt lông bườm để cho thông xuống bốn phía, bịt kín mắt và tai để ngựa khỏi sợ hãi, tập cho quen chạy mau, tập cho quen đi đứng đúng phép, người và ngựa phải gần gũi quen thuộc nhau rồi mới sử dụng được. Các dụng cụ về ngựa xe là yên, cương, dàm và hàm khớp, phải lo cho đủ đầy, bền chắc. Thường thường thì ngựa không trước thì sau, đều bị tổn hại; không tổn hại vì đói thì cũng bị tổn hại vì no. Trời đã tối mà đường còn xa, thì nhiều khi thà để cho người mệt mà cẩn thận chớ cho ngựa mệt, nhờ đó mà ngựa có dư sức để phòng bị trường hợp địch đánh úp ta. Hiểu rõ việc ấy thì tha hồ dọc ngang giữa thiên hạ.

Nguồn: Sưu tầm

Mục lục

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *