Home / Hỏi Đáp / Thành phố độc quyền và lý thuyết tăng trưởng

Thành phố độc quyền và lý thuyết tăng trưởng

Khi tôi ở Hồng Kông vào tháng 3, tôi đã có một cuộc phỏng vấn thú vị với Cloud Yip từ tạp chí iMoney. Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

Q: Ý tưởng về các thành phố đặc quyền (charter city) có nguồn gốc từ Hồng Kông và Thâm Quyến, phải không?

Romer: Hai tiền lệ thú vị nhất cho các thành phố đặc quyền là Hồng Kông và Thâm Quyến, vì vậy nguồn gốc ý tưởng về thành phố độc quyền đâu đó có thể đã bắt đầu từ đây. Chúng từng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy cải cách nền kinh tế Trung Quốc. Nhưng đó là một cách tiếp cận có thể được sử dụng ở bất kỳ quốc gia nào muốn thực hiện cải cách, ngay cả một quốc gia phát triển như Hoa Kỳ. Hóa ra đây là một thời điểm độc đáo trong lịch sử loài người, khi chúng ta có thể bắt đầu xây dựng nhiều thành phố mới, bởi vì có một nhu cầu to lớn cho việc sinh sống ở thành thị nhưng lại chưa hề được đáp ứng.

 

Q: Các yếu tố cần thiết của một thành phố đặc quyền là gì?

 

Romer: Theo một nghĩa nào đó, bản chất của ý tưởng này là khái niệm về một Thành phố Khởi nghiệp. Bạn có cơ hội để bắt đầu xây dựng một thành phố từ đầu.

Vậy thì câu hỏi lúc này nên là: “Bạn có thể đạt được gì từ điều đó? Những điều cần thiết để làm cho nó thành công là gì?” Tôi nghĩ điều bất thường về một Thành phố Khởi nghiệp, trái ngược với một thành phố đang tồn tại, là bạn có thể đề xuất một cái gì đó mới mà không phải trải qua quá trình tham vấn và thỏa thuận kéo dài với những người mà có thể bị ảnh hưởng bởi những thay đổi ấy. Và chắc chắn sẽ luôn có những người không ủng hộ những thay đổi này, nhưng cuối cùng vẫn phải nghe theo số động và bị áp đặt phải tuân theo những thay đổi này. Với Thành phố khởi nghiệp thì khác, bạn có thể đề xuất một cái gì đó hoàn toàn mới và cho phép mọi người chọn xem họ có muốn sống theo quy tắc của nó hay không – những quy tắc được nêu trong điều lệ (charter) của thành phố. Điều lệ này là một tài liệu quy định các nguyên tắc cơ bản khi lập nên một thành phố đặc quyền. Những người muốn thử trải nghiệm những cải cách mới có thể đến đây, trong khi những người không muốn bị liên quan cũng không bị ép buộc phải tham gia. Với một startup, bạn có thể cải cách mà không phải ép buộc.

Đây là một phần cái nhìn sâu sắc của  Đặng Tiểu Bình khi xây dựng Thâm Quyến. Như ông đã giải thích sau đó, ông muốn có một cách để mở cửa nền kinh tế Trung Quốc, nhưng đồng thời tránh được những tranh cãi về việc phương hướng thay đổi nào là hợp lý và làm thế nào để theo đuổi chúng.

Ý tưởng này cũng liên quan chặt chẽ với ý tưởng về một đặc khu, nhưng nó là một loại hình đặc biệt của một đặc khu.

Đầu tiên, một thành phố đặc quyền phải có quy mô lớn. Các thành phố sẽ có hàng triệu cư dân, vì vậy cần có một khu vực rộng lớn để họ trú ngụ. Thứ hai, đó phải là một “khu vực cải cách” (Reform Zone), không phải là một “khu vực ưu đãi” (Concession Zone). Hầu hết các khu vực được lập ra để đem lại ưu đãi cho các công ty chứ không phải để thực hiện cải cách. Mục tiêu của Charter City là cải cách, không đưa ra những nhượng bộ, vì vậy theo nghĩa này, động lực xây dựng một Charter City hoàn toàn khác với động lực đằng sau hầu hết các đặc khu.

Dưới đây là hai câu hỏi của tôi để giúp những người xây dựng Charter City có thể phân biệt được một chính sách là cải cách hay nhượng bộ: Bạn có vui không nếu chính sách này tồn tại mãi mãi? Bạn có vui không nếu chính sách này lan rộng ra toàn quốc? Nếu câu trả lời cho cả hai câu hỏi là có, thì đó là một cuộc cải cách. Nếu không, nó gần như chắc chắn là một sự nhượng bộ, một món quà cho một số lợi ích đặc biệt. Khu vực cải cách là khu vực thực hiện một hoặc nhiều cải cách cơ bản.

Vì vậy, để tóm tắt lại, Charter City là một khu vực cải cách quy mô thành phố, nơi một thành phố khởi nghiệp có thể xuất hiện.

Q: Những vấn đề với việc mở rộng đô thị (Urban Expansion) là gì? Tại sao chúng ta cần phải có những thành phố mới?

Romer: Một trong những mối quan tâm chính của những người làm việc trong dự án mà chúng tôi gọi là Dự án Đô thị hóa (Urbanization Project) tại Đại học New York (NYU), là việc tổng dân số đô thị thế giới sẽ gia tăng thêm vài tỉ người. Có hai cách chúng ta có thể làm để ứng phó với sự gia tăng này – mở rộng các thành phố hiện có hoặc xây dựng các thành phố mới. Chúng tôi đang làm việc để khuyến khích cả hai. Bạn sẽ phải có cả hai, và hầu hết không gian bổ sung cho cư dân đô thị sẽ đến từ việc mở rộng các thành phố hiện có. Nhưng khi có hàng tỷ người muốn chuyển đến các thành phố, thì cũng có thể nghĩ đến việc bắt đầu xây dựng các thành phố mới.

Khi bạn cần gia tăng quy mô môi trường đô thị, bạn có cơ hội để triển khai một số khu vực cải cách. Sau đó, chúng ta có thể có được sự đổi mới trong quản lý nhà nước, tương tự như sự đổi mới mà một ngành công nghiệp có được khi có sự tham gia của các công ty khời nghiệp.

 

Một trong những kết luận tôi đưa ra khi tôi làm việc trên nền tảng lý thuyết của lý thuyết tăng trưởng (growth theory), là có một phạm vi rất lớn trong nền kinh tế tư nhân để khám phá những cách mới và tốt hơn để đem lại mức sống cao hơn. Điều này cũng có thể áp dụng tốt cho khu vực công. Ở mọi quốc gia, trong mọi xã hội, có rất nhiều cơ hội để tìm ra những cách tốt hơn để cung cấp các dịch vụ của chính phủ hiện tại và thay đổi các dịch vụ mà chính phủ cung cấp, thường bằng cách chuyển dịch vụ chính phủ truyền thống sang khu vực tư nhân vì chính phủ cung cấp một loại hình dịch vụ mới bổ sung cho việc cung cấp dịch vụ tư nhân. Ví dụ, khi một chính phủ bắt đầu đưa ra kiểm soát về mức giá mà một thực thể có quyền lực độc quyền có thể đưa ra, chính phủ có thể thoát khỏi việc kinh doanh cung cấp nước và điện và chuyển các mảng kinh doanh này sang cho các công ty tư nhân.

Vì vậy, chúng ta cần mở rộng đô thị vì hàng tỷ người sẽ chuyển đến các thành phố. Chúng ta có thể tận dụng sự mở rộng này để khuyến khích đổi mới nhanh chóng trong việc cung cấp các dịch vụ của chính phủ.

Q: Ông nghĩ ở những khu vực nào trên thế giới thì Charter City sẽ đem lại nhiều giá trị nhất ?

Romer: Tôi nghĩ rằng hầu hết mọi hệ thống kinh tế đều có thể được hưởng lợi từ việc thử nghiệm các hình thức mới của chính phủ và các loại dịch vụ mới của chính phủ. Thực tế là các chính phủ đang gặp nhiều rắc rối hơn có thể sẵn sàng hơn để thử một thứ gì đó mới, nhưng tôi nghĩ các thành phố khởi nghiệp có thể tạo ra giá trị ở bất cứ đâu.

Lấy Hoa Kỳ làm ví dụ. Nếu ai đó muốn bắt đầu một Thành phố đặc quyền ở đó, họ có thể làm gì? Một khả năng có thể là phát triển một thành phố mới mà ngay từ đầu đòi hỏi mọi phương tiện đều phải tự động, điều khiển bằng máy tính. Sau đó, bạn có thể thử nghiệm với một loại hệ thống giao thông hoàn toàn khác và thử những thứ mà bạn không bao giờ có thể thử trong một thành phố hiện có. Ví dụ: bạn có thể sử dụng phần mềm để chuyển hướng di chuyển trong từng làn đường cụ thể trên đường phố từng phút một. Bạn có thể làm cho thành phố an toàn hơn nhiều cho người đi bộ. Và bạn sẽ không phải trả các khoản lương đắt đỏ cho các sĩ quan cảnh sát để canh chừng vi phạm luật giao thông.

 

Bạn cũng có thể sử dụng phần mềm để ưu tiên các phương tiện cấp cứu khẩn cấp thay vì còi báo động. Điều này nghe có vẻ như là một lợi thế nhỏ, nhưng tại thành phố New York, khiếu nại số một nhận được qua đường dây liên lạc 311 là về tiếng ồn.

Ô nhiễm tiếng ồn làm giảm nghiêm trọng chất lượng cuộc sống hiện đại. Nó thậm chí có thể có tác động mạnh mẽ đối với sức khỏe. Đó là loại vấn đề mà chúng ta có xu hướng chấp nhận là không thể tránh khỏi, nhưng hoàn toàn có thể giải quyết được với những đổi mới phù hợp. Nhưng những đổi mới cần thiết có thể sẽ không thể thực hiện được nhờ nỗ lực của chỉ một công ty đơn lẻ. Đối với một thứ như phương tiện cấp cứu khẩn cấp, có thể cần sự đổi mới ở cấp độ của toàn thành phố.

Q: Sự khác biệt giữa Thành phố đặc quyền và Thành phố tư nhân (Private City) là gì?

Romer: Có một sự khác biệt lớn giữa việc hình thành nên các khu vực cải cách ở quy mô thành phố nhằm khuyến khích cải cách chính quyền và đổi mới trong chính phủ, so với việc loại bỏ hoàn toàn chính phủ và để một công ty điều hành một thành phố tư nhân. Có những người cho rằng các thành phố có thể được điều hành giống như một doanh nghiệp. Đôi khi, họ tuyên bố rằng một khi bạn cho phép mọi người lựa chọn giữa các thành phố họ có thể sống, bạn không còn cần bất kỳ cơ chế truyền thống nào về trách nhiệm chính trị mà chúng ta áp đặt lên chính phủ.

Tôi đồng ý rằng lựa chọn giữa các thành phố là một điều tốt, nhưng tôi không nghĩ rằng một mình điều này có thể kiểm soát được những hành vi tiêu cực tiềm tàng của những người nắm giữ quyền kiểm soát thành phố.

Tôi không nhận thấy quan điểm rằng tất cả những gì chúng ta cần chỉ là sự lựa chọn giữa các thành phố, đã là đáng tin cậy hoặc chấp nhận được. Mọi người đưa ra các so sánh thiếu chặt chẽ như “Chúng ta đã có các cửa hàng tạp hóa tư nhân, vậy tại sao chúng ta không thể có các thành phố tư nhân?” Họ đã không suy nghĩ nghiêm túc và chi tiết đối với một đề xuất như vậy. Chẳng hạn, trong một thành phố do tư nhân điều hành, liệu sẽ có một lực lượng cảnh sát và một hệ thống pháp lý có thể đưa người ta vào tù? Chúng ta có sẵn sàng để cho một công ty tư nhân tống giam mọi người không?

Hồ sơ theo dõi của lực lượng cảnh sát tư nhân và tố tụng tư pháp là rất yếu kém. Một số lực lượng cảnh sát kiểu này tồn tại ở Hoa Kỳ, được điều hành bởi các trường đại học tư nhân, nhưng phi lợi nhuận. Nếu trường đại học có một chương trình thể thao tạo ra nhiều doanh thu và uy tín, thì trường đại học có xu hướng bảo vệ các vận động viên của họ. Những vận động viên này thường là nam giới – những người có hành vi bạo lực tình dục đối với phụ nữ. Họ không hề bảo vệ sự bình đẳng theo luật pháp. Đây là một ví dụ cho thấy cảnh sát và các thủ tục tư pháp có thể bị bẻ cong để phục vụ cho lợi ích cá nhân của tổ chức, ngay cả trong trường hợp của một nơi như trường đại học, và không bảo vệ những người mà đáng ra nó có trách nhiệm phải bảo vệ.

Trừ khi ai đó sẵn sàng chỉ định liệu có một cảnh sát trưởng địa phương hay không và cách anh ta / cô ta được bổ nhiệm và chịu trách nhiệm gì, bất kỳ đề nghị nào đưa ra về các thành phố tư nhân đều có thể bị bác bỏ vì sự phù phiếm.

Hay nói cách khác, tôi sẽ không bao giờ đồng ý sống ở một thành phố tư nhân có lực lượng cảnh sát tư nhân. Tôi sẽ không bao giờ muốn con hoặc cháu của tôi sống trong một thành phố như vậy. Và quy tắc của tôi là tôi sẽ không ủng hộ bất kỳ sáng kiến ​​chính sách công nào cho một thành phố mới nếu đó không phải là nơi tôi sẽ sẵn sàng sống hoặc là nơi tôi muốn con cháu tôi sống.

Q: Một số người có thể nói rằng mọi người sở hữu cổ phần của thành phố, vì vậy đó là nền dân chủ thực sự. Ông nghĩ sao?

Romer: Đây là một sự so sánh thiếu chặt chẽ khác nếu như bạn nhìn kĩ vào các chi tiết. Việc chia sẻ quyền sở hữu có tác dụng gì, nếu như bạn có thể bị bắt giam bất kì lúc nào ?

Q: Vậy Khu Cải cách vẫn sẽ có chính phủ?

Romer: Bất kỳ khu vực cải cách hợp lý nào vẫn sẽ có tồn tại một hình thức chính phủ nào đó. Chính phủ ấy vẫn sẽ chịu trách nhiệm theo cách mà các chính phủ trên thế giới làm. Chúng ta cung cấp cho chính phủ các quyền lực đặc biệt, như khả năng tống giam người phạm tội vào tù, nhưng chúng ta cũng áp đặt các cơ chế trách nhiệm đặc biệt để đảm bảo rằng các quyền lực đó không bị lạm dụng.

Tôi cho rằng, những người nói rằng họ muốn thoát khỏi chính phủ đều biết rõ rằng điều đó là không thể. Điều mà họ dường như đang muốn nói là, “tôi muốn thành lập một chính phủ mới, trong đó tôi trở thành nhà độc tài.”

Q: Có đúng không khi nói rằng mục tiêu của Charter City là khuyến khích sự cạnh tranh giữa các thành phố?

Romer: Gần như vậy. Tôi muốn nói rằng mục tiêu là cải thiện chất lượng quản trị, và cạnh tranh và khởi nghiệp là một phương tiện để đạt được mục tiêu này.

Đây là một so sánh không chặt chẽ nhưng giúp chỉ cho bạn đi đúng hướng. Thật tốt khi có sự cạnh tranh giữa các công ty trong một ngành, cạnh tranh giữa những công ty đang tồn tại và cạnh tranh với cả những công ty mới gia nhập và đem theo nhiều điều mới lạ. Nếu quan sát thật kỹ, có một cách khả thi để có được lợi ích của hai loại cạnh tranh này giữa các thành phố.

Nhưng đưa ra một so sánh thôi là chưa đủ. Bạn cần lên kế hoạch chi tiết để biến ý tưởng ấy thành hiện thực.

Q: Cần bao nhiêu thành phố đặc quyền để cải thiện cơ chế chính sách quản lý trên toàn thế giới?

Romer: Ngay bây giờ, nhu cầu chuyển tới đô thị của hàng tỷ người đang không được đáp ứng. Nếu tất cả các nhu cầu này được đáp ứng bởi các thành phố mới, chúng ta có thể có hàng trăm thành phố như vậy, mỗi thành phố có quy mô từ 10 triệu cư dân trở lên. Và để đạt tới một viễn cảnh có hàng trăm thành phố thịnh vượng mới được thành lập, có lẽ từ ban đầu bạn sẽ phải xây dựng tới hàng ngàn thành phố. Cũng giống như nhiều công ty khởi nghiệp sẽ thất bại, chúng ta nên biết rằng nhiều thành phố khởi nghiệp cũng sẽ thất bại. Dù vậy thì điều này vẫn đáng để thử, vì chi phí cho nhiều thất bại chỉ là rất nhỏ so với lợi ích thu được từ dù chỉ một thành công như Thâm Quyến.

Điều đó nói nên rằng, phải hội tụ hàng loạt yếu tố để có thể bắt đầu một thành phố mới. Vì vậy, tôi không cho rằng sẽ có thể có quá nhiều thành phố như vậy. Ngay cả trong một kịch bản lạc quan, số lượng cuối cùng có thể không quá năm hoặc mười thành phố. Nhưng ngay cả như vậy, hiện thực hóa điều này chắc chắn vấn là một việc đáng để cố gắng

Thâm Quyến đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nó đã thay đổi tiến trình của lịch sử. Mọi người ở phương tây dường như quên mất rằng công cuộc cải cách ở Trung Quốc gây vô cùng nhiều tranh cãi; đã có rất nhiều sự phản đối, thậm chí là sự phản đối dữ dội. Vì vậy, thời bấy giờ, không có gì chắc chắn rằng cải cách sẽ thành công, ngay cả sau khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền.

Khi cải cách đang được tiến hành và Đặng Tiểu Bình lên chuyến thăm miền Nam năm 1992, thành công rõ rệt của Thâm Quyến đã bảo vệ công cuộc cách khỏi bọn phản động. Không có Thâm Quyến, cải cách ở Trung Quốc có thể đã bị ngừng lại trước khi có thể có bất kỳ tác động gì tới Trung Quốc như ngày nay.

Vì vậy, ngay cả khi Thâm Quyến là thành phố khởi nghiệp cuối cùng mà chúng ta từng thấy, lịch sử sẽ vẫn có thể được thay đổi bởi vì đã có một thành phố mới như Thâm Quyến tồn tại được ở Trung Quốc.

Q: Nếu chúng ta so sánh Hồng Kông và Thâm Quyến, mô hình nào tốt hơn cho một Thành phố đặc quyền?

Romer: Tôi nghĩ nó phụ thuộc vào hoàn cảnh. Nếu bạn đang nghĩ về việc thành lập một Thành phố đặc quyền ở Hoa Kỳ, thì Thâm Quyến là một mô hình tốt hơn. Nếu bạn đang nghĩ về việc ISIS kiểm soát Syria, Hồng Kông có lẽ sẽ tốt hơn.

Ngoài ra còn có mô hình kết hợp của hai loại này mà chúng ta nên xem xét. Hãy nghĩ về một kịch bản lịch sử khác cho Hồng Kông. Hãy tưởng tượng rằng đó là kết quả của một thỏa thuận được đàm phán giữa Anh và Trung Quốc, trong đó Trung Quốc quyết định nhập khẩu một số dịch vụ của chính quyền địa phương. Nó có thể đã bắt đầu một thành phố giống như Thâm Quyến, nơi chính phủ quốc gia ở Trung Quốc vẫn giữ quyền kiểm soát cuối cùng, nhưng vẫn nhập một số dịch vụ của chính phủ từ các quốc gia khác nhau.

Q: Nhưng ông có nghĩ rằng Thâm Quyến giống một Khu vực ưu đãi (Concession Zone) hơn không?

Romer: Tôi nghĩ rằng rủi ro nó được sử dụng làm Khu vực ưu đãi là có tồn tại. Nhưng dường như tôi thấy rõ ràng rằng động lực cơ bản trong việc thành lập bốn đặc khu ban đầu, trong đó Thâm Quyến là trường hợp thành công nhất, là nhanh chóng đạt được cải cách địa phương với hy vọng rằng điều này sẽ tạo ra cải cách trên khắp Trung Quốc. Các biện pháp được thực hiện ở Thâm Quyến vượt qua hai bài kiểm tra cải cách của tôi: chúng đã được áp dụng như một chính sách vĩnh viễn và chúng đã lan sang phần còn lại của Trung Quốc.

Q: Khu vực thương mại tự do Thượng Hải thì sao?

Romer: Tôi không biết đầy đủ về các chi tiết liên quan tới Khu vực thương mại tự do Thượng Hải, nhưng tôi nghĩ bạn có thể coi đây là sự tiếp nối của một chiến lược thử nghiệm để thực hiện cải cách. Phần lớn trọng tâm trong khu vực này dường như là thí điểm cải cách thị trường tài chính mà cuối cùng có thể lan rộng ra toàn quốc. Theo nghĩa này, tôi nghĩ đó là một ví dụ mới về Khu cải cách (Reform Zone).

Q: Những loại khu cải cách (reform zones) nào mà thế giới cần nhất?

Romer: Tùy thuộc vào bối cảnh, các loại hình cải cách có thể rất khác nhau. Ở Hoa Kỳ, rõ ràng chúng ta cũng có thể được hưởng lợi từ một số cải cách tài chính, để chúng ta không thể gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính nào khác nữa trên toàn thế giới. Và như tôi đã đề cập, chúng ta có thể đang ở thời điểm mà chúng ta có thể thay đổi sâu sắc việc di chuyển hàng hóa và mọi người trong một thành phố.

Ở Trung Quốc ngày nay, tôi nghĩ sẽ rất thú vị khi xây dựng một thành phố mới và hấp dẫn cư dân đến cư ngụ bằng cách đảm bảo chất lượng không khí sạch nhất trong cả nước. Nó có thể làm điều này bằng cách cấm ngay từ ban đầu, tất cả nhiên liệu diesel, than và xăng; thậm chí là bằng cách cấm đốt cháy tất cả các loại nhiên liệu cả lỏng và rắn. Các nguồn nhiên liệu sẽ được cho phép sử dụng bao gồm năng lượng hạt nhân, gió, mặt trời và khí đốt tự nhiên. Điều này đã khả thi về mặt công nghệ. Chúng ta biết làm thế nào để sản xuất điện với chi phí cạnh tranh từ hỗn hợp các nguồn nhiên liệu này. Chúng ta cũng biết cách thực hiện các sửa đổi nhỏ cho động cơ đốt trong để chúng có thể chạy bằng khí nén tự nhiên. Đó có thể là nơi mà những chiếc xe điện chạy bằng pin sẽ cạnh tranh để giành thị phần, hoặc sớm thôi, nơi những chiếc xe điện mới chạy bằng pin nhiên liệu có thể cạnh tranh. Nếu một thành phố thử nghiệm những điều này, tôi cho rằng nó có thể có điện và giao thông ở một mức chi phí cạnh tranh và do đó, sẽ có chất lượng không khí sạch nhất trong các nước đang phát triển. Và nó có thể làm như vậy mà không cần phải có một hệ thống quy định và kiểm tra rất phức tạp đối với từng chiếc xe riêng lẻ như những gì chúng ta đang thực hiện ở Hoa Kỳ.

Thành phố mới này sau đó có thể là một mô hình cho tất cả các nước đang phát triển.

Tôi nghĩ rằng Trung Quốc sẽ có thể giảm ô nhiễm ở nhiều thành phố trong 10 năm tới bởi vì nó có một chính phủ tương đối có thẩm quyền. Khi mọi người thực sự muốn một cái gì đó, chính phủ có thể đáp ứng. Nó có thể làm như vậy bằng cách sao chép hệ thống ở Hoa Kỳ. Nhưng đối với phần các nước đang phát triển còn lại, nơi năng lực của chính phủ còn hạn chế thì chiến lược của Trung Quốc sẽ khó có thể áp dụng, vì chiến lược lọc sạch không khí đô thị của Trung Quốc yêu cầu rất nghiêm ngặt về năng lực pháp lý và thực thi từ chính quyền địa phương.

Q: Tôi muốn thảo luận một chút về một câu hỏi rất quan trọng: Kết cục mà Charter City hướng tới là gì? Trong trường hợp của Hồng Kông, dường như sau khi bàn giao vào năm 1997, Hồng Kông đã biến thành một loại Khu vực ưu đãi. Nếu chúng ta khái quát hóa ví dụ này, khi nước chủ nhà trở thành một quốc gia phát triển nhờ sự giúp đỡ của Thành phố đặc quyền, nước này có xu hướng muốn kéo Thành phố đặc quyền gia nhập lại vào hệ thống quản lý của mình. Ông nghĩ sao về điều này ?

Romer: Nếu bạn nghĩ về Thâm Quyến, không có nhiều vấn đề xảy ra khi tích hợp nó vào phần còn lại của hệ thống Trung Quốc. Thành thật mà nói, điều này là do cả nước đã thích nghi với mô hình của Thâm Quyến.

Vấn đề ở Hồng Kông có thể là người Anh đã cố gắng ép buộc chính phủ Trung Quốc thực hiện một số cải cách chính trị mà chính phủ Trung Quốc đã không muốn. Người Anh đã làm điều đó bởi vì họ nghĩ rằng đó là điều đúng đắn cho người dân ở Hồng Kông. Nhưng chúng ta phải thực tế rằng khi bạn cố gắng buộc một chính phủ làm những việc mà nó không có động lực trong nước để làm, bạn có khả năng thất bại. Đáng lẽ ra điều cần phải làm là tìm cách đưa ra những lợi ích để thuyết phục và khuyến khích họ đi theo đường lối đúng đắn.

Một ví dụ về điều này là khi Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Bắc Kinh bắt đầu đưa ra các báo cáo hàng giờ về mức độ bụi ở Bắc Kinh, đặc biệt là các hạt nhỏ nguy hiểm nhất, mà họ gọi là PM 2.5. Điều này khiến Chính phủ có được nhận thức về tình hình ô nhiễm hiện tại và giờ đây đang thực hiện nhiều hành động để giảm thiểu ô nhiễm.

Vì những quyết định mà người Anh đã đưa ra ngay trước khi bàn giao, nên chính phủ Trung Quốc hạn chế sử dụng Hồng Kông làm thử nghiệm cho cải cách thị trường mới hoặc cải cách chính trị mới. Họ nhận thấy tình hình ở đó quá nguy hiểm. Vì vậy, họ đang xây dựng khu thương mại tự do ở Thượng Hải chứ không phải ở đây [ở Hồng Kông]. Họ sẽ thử nghiệm với các hình thức cải cách chính trị khác ở những nơi khác.

Nói ra điều này có thể hơi khắc nghiệt, nhưng chính người Anh có thể đã phá hỏng cơ hội để Hồng Kông tiếp tục làm nơi thử nghiệm cải cách.

Có một điểm đáng chú ý khác. Cải cách là một quá trình không bao giờ kết thúc, cũng như đổi mới là một quá trình không bao giờ kết thúc. Thật đáng thất vọng khi Thâm Quyến đã không cải cách mọi khía cạnh của xã hội Trung Quốc. Tôi cho rằng bạn thậm chí có thể nói rằng đó là một sự thất vọng vì nó đã không loại bỏ được mối đe dọa biến đổi khí hậu hoặc mang lại hòa bình cho Trung Đông. Nhưng điều đó nghe thật ngu ngốc. Thâm Quyến là một bước tiến trên một con đường phát triển dài. Hồng Kông là một bước quan trọng khác trên con đường này. Điều quan trọng là phải tham vọng và phấn đấu để đạt được những thành tựu lớn, nhưng sau đó chấp nhận những thành công nhỏ như những bước đi trên một con đường dài hơn.

Q: Vậy mô hình nào của Charter City là tốt nhất? Bên cạnh các mô hình Hồng Kông và Thâm Quyến, Singapore cũng có thể được coi là một mô hình cho một Thành phố đặc quyền. Singapore đã tạo ảnh hưởng tuyệt vời lên toàn bộ khu vực Malaysia trong khi vẫn độc lập với Malaysia. Ông có đồng ý rằng đây có thể là mô hình tốt nhất cho các thành phố mới?

Romer: Tôi nghĩ rằng bạn nên cởi mở với cả hai loại mô hình. Nói chung, tôi nghĩ rằng sự cạnh tranh giữa các thành phố với các hệ thống khác nhau có thể là một điều tốt. Vì vậy, tôi không nghĩ rằng bạn phải có một mô hình bao quát buộc tất cả các thành phố phải giống nhau. Tôi nghĩ việc có những thành phố khác biệt là hoàn toàn bình thường và chấp nhận được.

Mặt khác, bạn phải cho phép một số sự linh hoạt trong cấu trúc quản lý để nó có thể thích ứng theo thời gian. Bạn muốn sự linh hoạt này bởi vì rất khó để biết thế giới sẽ như thế nào trong một trăm năm nữa. Bạn không nên cố gắng gò ép, buộc phải giống như phiên bản Singapore, phiên bản luôn độc lập hoặc phiên bản Thâm Quyến, luôn được kết nối. Tôi nghĩ rằng bạn muốn thử và bắt đầu với một sự độc lập nhất định và sau đó có một số cơ chế có thể điều chỉnh theo thời gian.

Ví dụ, tôi đã ngừng làm việc trong một dự án ở Honduras vì một nhóm người ở đó đang cố gắng tạo ra một hệ thống quý tộc mà sẽ không bao giờ chịu sự kiểm soát từ bầu cử địa phương. Họ đang làm điều này bằng cách thành lập một hội đồng chính phủ sẽ bổ nhiệm lại các thành viên của chính mình. Nó sẽ không chịu sự kiểm soát chính trị của người dân trong khu vực, cũng như công dân của Honduras, thậm chí cả cử tri ở nơi khác như trường hợp ở Hồng Kông. Họ đang cố gắng tạo ra một tầng lớp quý tộc thực sự trong một nhóm nhỏ gồm khoảng hai mươi người, những người sẽ chỉ định người thay thế của họ, và là những người sẽ luôn chịu trách nhiệm.

Sẽ không có sự linh hoạt, không có khả năng đáp ứng với sự phát triển trong tương lai. Và không có trách nhiệm trong trường hợp vòng tròn nhỏ quý tộc tự bổ nhiệm này lạm dụng quyền lực của họ. Một nhóm nòng cốt của những người được bổ nhiệm đều xuất thân từ đảng cầm quyền hiện tại ở Honduras, kiểm soát hội đồng này. Do đó, đề xuất ở đó không còn vượt qua bài kiểm tra của tôi nữa: Tôi có muốn sống ở đó hay muốn con cháu tôi sống ở đó không? Vì vậy, tôi đã từ chối không tham gia thêm vào dự án này.

Q: Vậy dự án ở Honduras có còn tiếp tục không?

Romer: Họ nói rằg họ vẫn đang tiến về phía trước. Họ đã thông qua một đạo luật mới vượt qua lằn ranh đỏ của tôi. Nó loại bỏ tất cả khả năng trách nhiệm bầu cử cho những người điều hành khu vực. Điều này không có trong luật mà tôi ủng hộ. Họ đã bổ nhiệm các thành viên của hội đồng quản trị.

Những gì họ đang cố làm là sai đến mức tôi có thể nói những gì chúng ta đang xem là một trò hề hoặc một bi kịch. Nó có thể kết thúc như một trò hề vì tôi không thể tưởng tượng một nhà đầu tư khôn khéo nào lại đầu tư trong những trường hợp này, ở một nơi được kiểm soát bởi một tầng lớp quý tộc thân hữu. Tôi dự đoán rằng nỗ lực này sẽ tự sụp đổ. Nhưng về mặt pháp lý cấu trúc này hiện vẫn đang tồn tại.

Q: Có dự án nào khác của Charter City mà ông hiện đang tham gia không?

Romer: Không, không có gì ở giai đoạn thực hiện mà tôi đang tham gia ngay bây giờ. Có một số thảo luận sơ bộ và một số suy nghĩ về những ý tưởng này, nhưng không có gì đã sẵn sàng để thực hiện.

Q: Ông có nghĩ rằng bất kỳ chính phủ nào cũng có thể thành công mà không cần sự giúp đỡ của các chuyên gia như ông không?

Romer: Tất nhiên rồi! Ý tưởng không phức tạp lắm. Đặng Tiểu Bình đã làm tốt mà không có tôi! Và những vấn đề này sẽ nhận được lời khuyên từ các chuyên gia ở những nơi như Ngân hàng Thế giới, những người luôn rất thù địch với các khu vực đặc biệt.

Tất cả những điều mà những người như tôi có thể làm là gieo hạt giống, khuyến khích một số ý tưởng mới và hy vọng rằng nó sẽ được kết hợp với một số ý tưởng khác mà cuối cùng sẽ được đưa vào thực tế một thời gian nào đó trong tương lai.

Q: Những người bình thường như độc giả của chúng tôi có thể làm gì cho dự án Charter City?

Romer: Đó là mt câu hỏi hay. Có lẽ một điều mà độc giả của bạn có thể làm là đưa ra một số gợi ý về cách họ có thể giúp đỡ. Đó là một ý tưởng đã làm phấn khích một số người; Đó là một loại dấu hiệu đáng khích lệ. Nhưng tôi nghĩ mọi người không chắc chắn nên làm gì tiếp theo. Chúng ta nên cởi mở với nhiều gợi ý.

Các thảo luận đi sâu vào chi tiết sẽ thú vị hơn. Ví dụ, có thể hữu ích khi có một diễn đàn nơi mọi người có thể đề xuất các loại cải cách có thể đáng để thử ở những nơi khác nhau. Tôi đề nghị tập trung vào ô nhiễm không khí ở Trung Quốc. Những người khác có thể có đề xuất tốt hơn nhiều.

Sẽ là rất hữu ích nếu có một tạp chí hoặc một bản tin, hoặc một cái gì đó giống như nơi mọi người có thể đề xuất và trao đổi ý tưởng. Rất có thể một trong những ý tưởng này sẽ thuyết phục được các nhà hoạch định chính sách và khiến họ phải cân nhắc. Để so sánh, thì khi John Kennedy là tổng thống ở Hoa Kỳ, một người nào đó đã thuyết phục ông ấy theo đuổi ý tưởng đưa con người lên mặt trăng. Có lẽ cuộc thảo luận này có thể dẫn đến quyết định của chính phủ về một cuộc thử nghiệm đưa người lên mặt trăng.

Thành thật mà nói, tôi không biết ý tưởng này sẽ được tiếp nhận như thế nào hoặc nó sẽ đi đến đâu. Tôi chỉ muốn bắt đầu một cuộc thảo luận không bị mắc kẹt trong lối mòn thông thường. Tôi đặc biệt tập trung vào các nước nghèo nhất trên thế giới. Tôi đã từng nghĩ về những gì có thể làm việc ở Trung Quốc bây giờ hoặc Hoa Kỳ bây giờ, nhưng tôi đã bị thuyết phục rằng chúng ta nên suy nghĩ rộng hơn và xem xét những khả năng này.

Q: Ông có đồng ý rằng lý thuyết tăng trưởng không phải là một chủ đề nóng trong nghiên cứu kinh tế ngay bây giờ? Và tại sao?

Romer: Vì những lý do mà tôi không nghĩ rằng chúng tôi hiểu, kinh tế học trải qua các giai đoạn. Một chủ đề có thể được nghiên cứu chuyên sâu trong một thời gian, và sau đó nó sẽ đột nhiên lỗi thời. Đây không hẳn là một điều xấu bởi vì, theo một cách nào đó, bạn để nó im lặng một lúc và khi bạn khởi động lại nó, nó gần giống như một sự khởi đầu. Chúng ta có một cái nhìn mới. Chúng ta khám phá những hướng đi mới.

Chúng ta đã có một sự bùng nổ của lý thuyết tăng trưởng vào cuối những năm 1950 và 1960. Sau đó lý thuyết này dần rơi vào quên lãng. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh đã quay trở lại từ nơi nó bắt đầu từ đầu những năm 1980 và theo đuổi một hướng đi mới. Từ năm 2000, tăng trưởng khá im ắng. Có nhiều công việc đang diễn ra về ứng dụng thực nghiệm của lý thuyết tăng trưởng, nhưng thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ rằng phần lớn công việc đang cố gắng điều tra nền tảng của tăng trưởng đang theo đuổi ngõ cụt. Vì vậy, việc lĩnh vực này đang chìm trong im lặng không nhất thiết là một điều tồi tê. Chúng tôi cũng đã quan sát thấy điều tương tự trong các lĩnh vực khác.

Như bạn biết đấy, điều tôi quan tâm ngay bây giờ là đô thị hóa. Có rất nhiều nghiên cứu về kinh tế đô thị và về quá trình đô thị hóa trong những năm 1960 và 1970, và sau đó nó cũng im lặng. Bây giờ con lắc đang lắc theo hướng khác. Mọi người đang nhận ra rằng có rất nhiều câu hỏi lý thuyết và thực tiễn quan trọng mà chúng ta có thể theo đuổi về đô thị hóa.

Q: Ông có đồng ý rằng Lý thuyết tăng trưởng và Kinh tế phát triển (Development Economics) về cơ bản là giống nhau không?

Romer: Không. Tôi nghĩ thật hữu ích khi phân biệt giữa Tăng trưởng (nghiên cứu sự tiến bộ dưới góc độ phân tích kĩ thuật) và Phát triển (nói về tăng trưởng bắt kịp – catch-up growth).

Một trong những vấn đề với công việc thực nghiệm trùng khớp với công trình lý thuyết về tăng trưởng nội sinh là nó không phân biệt được hai khái niệm này.

Tăng trưởng nội sinh cung cấp cho chúng ta các công cụ để suy nghĩ về việc đẩy nhanh tiến bộ công nghệ ở những nơi như Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu. Đây thực sự là loại lý thuyết mà chúng ta nên sử dụng để suy nghĩ về cách đối phó với sự nóng lên toàn cầu bởi vì nếu phát thải carbon gây ra nhiều thiệt hại như nhiều người lo ngại, thì phản ứng khả thi duy nhất sẽ là khuyến khích tiến bộ công nghệ để làm giảm chi phí của các nguồn năng lượng không phát thải carbon..

 

Có một câu hỏi riêng biệt về thứ mà tôi nghĩ chúng ta nên gọi là tăng trưởng bắt kịp. Làm thế nào một đất nước có công nghệ lạc hậu bắt kịp với hiện tại? Đây là câu hỏi mà các nhà lãnh đạo phải đối mặt ở Trung Quốc trong những năm 1980. Đó là câu hỏi mà hầu hết các quốc gia trên thế giới phải đối mặt, và dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc, có vẻ như rằng nếu một chính phủ làm đúng, họ có thể đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng. Tôi đã bị thuyết phục rằng một trong những điều cần phải được làm đúng, có lẽ cũng là điều quan trọng nhất cần phải làm, là tạo điều kiện cho đô thị hóa thành công.

Q: Trong những năm gần đây, các nhà kinh tế phát triển tập trung vào ba lĩnh vực nghiên cứu, đó là tác động của viện trợ quốc tế với đại diện là Jeffrey Sachs, hiệu ứng kinh tế chính trị đối với tăng trưởng được theo đuổi bởi Daron Acemoglu và James Robinson, hoặc kinh tế học thực nghiệm đối với tăng trưởng của Esther Dulfo.Quan điểm của ông về ba lý thuyết về tăng trưởng bắt kịp hiện đang được bàn luận nhiều nhất trong nghiên cứu là gì?

Romer: Bạn biết đấy, tôi thực sự không đồng ý với bất kỳ ai trong số ba người này. Tôi nghĩ đô thị hóa là thứ chúng ta phải học. Hãy xem xét trường hợp của Ấn Độ. Nếu nó muốn tiếp cận với công nghệ trên khắp thế giới, và làm cho những công nghệ này không chỉ dành cho giới thượng lưu, mà còn cho tất cả công nhân, họ sẽ sẽ phải có các thành phố cửa ngõ (gateway city) mời công nhân và công ty nước ngoài đến hoạt động ở Ấn Độ. Và các thành phố cửa ngõ mời mọi người từ các vùng nông thôn trên khắp Ấn Độ đến tham gia cùng họ. Thật không may, Ấn Độ không xây dựng các thành phố cửa ngõ thực sự hoạt động. Nếu bạn nhìn vào bất kỳ thành phố nào của Ấn Độ ngay bây giờ, chúng cũng bị ô nhiễm như các thành phố của Trung Quốc. Sự tắc nghẽn giao thông thật kinh khủng. Họ loại trừ cư dân mới từ khu vực nông thôn.

Trong bối cảnh này, hãy nghĩ về những gì Jeff Sachs đã đề xuất về việc cung cấp thêm viện trợ. Không có nơi nào đủ viện trợ để hối thúc người Ấn Độ xây dựng thành phố nếu chính họ không muốn. Thay đổi nền kinh tế chính trị của Ấn Độ? Tuyệt vời nếu bạn có thể. Nhưng bằng cách nào? Đâu là bằng chứng cho thấy bạn có thể thay đổi mọi thứ theo cách nâng cao mức sống? Như bạn tôi Edwin Lim đã quan sát, nền dân chủ ở Ấn Độ đã hoàn toàn thất bại trong việc cung cấp những điều cơ bản như dinh dưỡng hoặc giáo dục trẻ em cho các bé gái, thậm chí không thành công bằng các nước láng giềng như Bangladesh. Và kinh tế thực nghiệm? Máy ảnh cho giáo viên? Hay như Lant Pritchett đã đưa nó vào một bài đăng trên blog gần đây, chúng ta có thực sự muốn dành quá nhiều nỗ lực hàn lâm để phân tích thử nghiệm các chính sách như các nhóm phụ nữ tự giúp mình không? Đâu là bằng chứng bạn có thể đạt được tốc độ tăng trưởng giống như của Trung Quốc từ các biện pháp như thế này?

Tôi nghĩ rằng thủ tướng mới ở Ấn Độ hiểu tầm quan trọng của đô thị hóa đối với tương lai của đất nước mình. Đó là vấn đề quyết định cho Ấn Độ ngay bây giờ. Nhưng tôi nghĩ sẽ khó để ông ấy làm bất cứ điều gì về việc này. Họ có một đề xuất xây dựng 100 Thành phố thông minh để cố gắng giải quyết các vấn đề họ gặp phải, nhưng vẫn còn phải xem liệu điều này có tạo ra sự khác biệt nào không. Tôi ước rằng họ suy nghĩ nghiêm túc về việc để một số khu vực pháp lý mới tham gia với vị thế là khởi nghiệp và cạnh tranh với tất cả các dự án thất bại khác mà họ đã có để thu hút cư dân.

Q: Vậy là ông sẽ không quay lại nghiên cứu lý thuyết tăng trưởng nữa?

Romer: Thật ra tôi đang viết một vài thứ về lý thuyết tăng trưởng ngay bây giờ, nhưng nó chủ yếu là những bình luận về những gì đã xảy ra với lý thuyết tăng trưởng. Thành thật mà nói, tôi nghĩ rằng một phần đáng kể của công việc mà mọi người đang làm về tăng trưởng phải được đánh giá là một thất bại từ góc độ khoa học.

Đặc biệt – và tôi xin lỗi nếu điều này phụ thuộc quá nhiều vào thuật ngữ của lĩnh vực của chúng tôi – cạnh tranh độc quyền hóa ra chỉ là công cụ để hiểu các ý tưởng kinh tế. (Nó cũng trở thành công cụ để hiểu thương mại quốc tế, địa lý kinh tế và kinh tế vĩ mô.) Nhưng đã có một loạt các mô hình liên quan đến Đại học Chicago – từ cái mà một số người gọi là trại nước ngọt trong kinh tế vĩ mô – đó là đang tiếp tục một cuộc chiến mà George Stigler bắt đầu vào những năm 1930 để giữ cho sự cạnh tranh độc quyền không được sử dụng trong kinh tế. Thật khó để giải thích cho người ngoài cuộc rằng tại sao cả một nhóm các nhà kinh tế đã kết thúc sai về tiến bộ khoa học, chống lại hướng mà tất cả các lý thuyết kinh tế hiện đại đang thực hiện, nhưng họ vẫn  là như thế.

Trong kinh tế học của các ý tưởng, chúng ta ít nhất phải sẵn sàng xem xét khả năng ai đó có thể kiểm soát một ý tưởng, do đó có một sức mạnh độc quyền liên quan đến ý tưởng. Điều này có thể đến từ bằng sáng chế hoặc bản quyền. Nó cũng có thể đến từ bí mật.

Sau đó, chúng ta có thể hỏi liệu đó là một ý tưởng tốt hay một ý tưởng tồi để có thêm quyền sở hữu trí tuệ hoặc bảo vệ quyền sở hữu các ý tưởng nhiều hơn. Chúng tôi biết rằng câu trả lời ở đây là hỗn hợp. Đôi khi một số lượng của nó có thể là tốt, nhưng nó cũng có thể có hại nếu quyền tài sản quá mạnh hoặc được trao cho các loại ý tưởng sai. Nhưng nếu bạn không cho phép thậm chí cho phép khả năng thuê nhà độc quyền sau khi phát hiện ra ý tưởng, bạn thậm chí có thể đặt câu hỏi.

Vì vậy, về mặt khoa học, không thể chấp nhận được những người nói rằng, chúng tôi sẽ không bao giờ, theo nguyên tắc, sẽ xem xét một mô hình trong đó có bất kỳ độc quyền nào. Chúng tôi sẽ chỉ gắn bó với các mô hình cạnh tranh về giá cả. Tôi nghĩ đây là một lập trường khoa học không thể đo lường được.

Tôi không nghĩ rằng phê bình này sẽ thu hút sự quan tâm đến lý thuyết tăng trưởng. Nhưng như tôi đã nói, khi đến lúc lãi suất quay trở lại, ai đó sẽ có một lý thuyết mới về công việc tăng trưởng và công việc trong lĩnh vực này sẽ bắt đầu lại. Nhưng trong lúc này, chúng ta phải dừng việc chịu đựng những công việc không khoa học.

Q: Tôi nghĩ rằng mô hình tăng trưởng nội sinh đã mở ra một hướng mới cho lý thuyết tăng trưởng để phát triển hơn nữa, nhưng mối quan tâm học thuật trong lý thuyết này chỉ dừng lại. Và thậm chí sách giáo khoa chỉ đề cập ngắn gọn về mô hình tăng trưởng nội sinh. Vấn đề là gì?

Romer: Chà, tôi nghĩ rằng điều chúng ta học được từ sự tăng trưởng nội sinh là một điều gì đó rất đơn giản. Đó là khái niệm về một ý tưởng là một sản phẩm không đối thủ. Tuyên bố rằng một ý tưởng là một sản phẩm không có đối thủ là rất mạnh mẽ bởi vì những gì cho bạn biết là giá trị của một ý tưởng tỷ lệ thuận với, hoặc ít nhất là quy mô với tổng số người có thể sử dụng nó. Vì vậy, nó có nghĩa là hiệu ứng quy mô là trung tâm của hoạt động kinh tế. Đây là lý do tại sao toàn cầu hóa rất quan trọng, bởi vì mọi người đều có thể sử dụng mọi ý tưởng.

Mô hình Solow đã cho phép một sản phẩm không phải là đối thủ, nhưng mô hình cũng khiến nó không thể bị loại bỏ – điều đó có nghĩa là không ai có thể kiểm soát hoặc sở hữu một ý tưởng. Điều này biến một hàng hóa không đối thủ thành hàng hóa công cộng. Những gì lý thuyết tăng trưởng nội sinh nói là, có một số hàng hóa không đối thủ có thể ít nhất là một phần có thể loại trừ. Điều này có nghĩa là các ưu đãi bắt đầu quan trọng, cả cho việc khám phá ý tưởng và để truyền bá ý tưởng. Những người muốn gắn bó với việc lấy giá không bao giờ muốn cho phép khả năng hàng hóa không có đối thủ đó thậm chí có thể được loại trừ một phần. Vì sự khăng khăng không thể kiểm soát của họ đối với các mô hình lấy giá, họ đã cố gắng ngăn chặn sự lan truyền của cái nhìn sâu sắc quan trọng từ lý thuyết tăng trưởng nội sinh. Và họ đã ít nhất thành công một phần khi làm như vậy.

Một khi bạn thừa nhận rằng có một số hàng hóa không có đối thủ, toàn cầu hóa trở nên quan trọng hơn nhiều so với lý thuyết tiêu chuẩn cho thấy. Và nếu bạn cho phép một số trong số chúng được loại trừ một phần, thì ưu đãi quan trọng hơn nhiều so với lý thuyết tiêu chuẩn cho thấy, tốt hơn và tồi tệ hơn.

Vì vậy, ví dụ, có một ý tưởng không đối thủ mà một công ty có thể kiểm soát. Họ có thể giữ bí mật. Họ có thể lấy nó

để làm việc trong một nhà máy ở Ấn Độ. Nếu họ muốn định vị ở Ấn Độ nhưng không có thành phố cửa ngõ nào ở đó, họ có thể đi nơi khác trên thế giới. Vì vậy, các chính sách làm cho một nơi như Mumbai trở nên rối loạn tăng trưởng ảnh hưởng đến cả nước.

Những gì một chính phủ có thể làm là ảnh hưởng đến các khuyến khích cho mọi người để đưa ý tưởng vào một quốc gia. Một cách để nghĩ về lý do tại sao Thâm Quyến mạnh mẽ như vậy là nó tạo ra động lực cho các công ty đưa ý tưởng vào Trung Quốc và kết hợp những ý tưởng đó với công nhân Trung Quốc.

 

Bạn không cần thậm chí cần một mô hình chính thức cho điều đó. Một khi bạn nhìn thấy ý tưởng cơ bản, đôi khi các từ và sự rõ ràng của suy nghĩ là những gì thực sự quan trọng, không phải là toán học. Bạn có thể sử dụng toán học để đến đó, nhưng một khi bạn đã đến đó, bạn không cần điều đó nữa. Thật không may là những ý tưởng này không được truyền đạt cho học sinh trong sách giáo khoa của chúng tôi, bởi vì đây là những ý tưởng thú vị.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *